Bài giảng Ngữ văn 9 (Kết nối tri thức) - Bài 1: Điển cố, điển tích. Một số yếu tố Hán Việt dễ nhầm lẫn và cách phân biệt - Trường THCS Nam Hải
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Ngữ văn 9 (Kết nối tri thức) - Bài 1: Điển cố, điển tích. Một số yếu tố Hán Việt dễ nhầm lẫn và cách phân biệt - Trường THCS Nam Hải", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
bai_giang_ngu_van_9_ket_noi_tri_thuc_bai_1_dien_co_dien_tich.pptx
Nội dung tài liệu: Bài giảng Ngữ văn 9 (Kết nối tri thức) - Bài 1: Điển cố, điển tích. Một số yếu tố Hán Việt dễ nhầm lẫn và cách phân biệt - Trường THCS Nam Hải
- ÔN TẬP BÀI 1-TIẾT 5,6 ĐIỂN CỐ, ĐIỂN TÍCH MỘT SỐ YẾU TỐ HÁN VIỆT DỄ NHẦM LẪN VÀ CÁCH PHÂN BIỆT
- PHẦN I. ÔN TẬP LÝ THUYẾT I. Tìm hiểu về điển tích, điển cố 1/ Khái niệm; - Điển cố:Là sự việc hay câu chữ trong sách xưa, được dẫn lại trong văn bản của các tác giả đời sau. - Điển tích: Là câu chuyện trong sách xưa, được dẫn lại một cách cô đúc trong văn bản của các tác giả đời sau. 2/ Ý nghĩa - tác dụng - Làm cho câu văn, câu thơ thêm hàm súc, trang nhã, gợi liên tưởng phong phú cho người đọc. - Giúp củng cố lí lẽ, làm tăng sức thuyết phục cho văn bản nghị luận.
- 3. Cách nhận biết - Điển tích, điển cố tuy xuất hiện chỉ là từ ngữ trong văn bản nhưng đằng sau từ ngữ là một câu chuyện, sự tích, câu kinh, câu thơ nào đó. - Điển tích, điển cố trong VB của người Việt chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc từ văn học cổ trong nước; một số điển tích xuất phát từ văn học châu Âu. - Cần xem chú giải để hiểu đúng ý nghĩa của các điển cố, điển tích.
- II. Sự khác biệt về nghĩa của một số yếu tố Hán Việt dễ nhầm lẫn 1. Nhận biết một số yếu tố Hán Việt dễ nhầm lẫn - Các yếu tố Hán Việt đồng âm: đồng âm (cùng cách đọc, cách viết trong tiếng Việt hiện đại) nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau. Ví dụ: bảo1: chăm sóc, giữ gìn (bảo vệ, bảo dưỡng, bảo tàng,...) bảo2: quý (gia bảo, bảo vật, bảo kiếm,...) - Các yếu tố Hán Việt gần âm: gần nhau về cách đọc, cách viết trong tiếng Việt hiện đại, nhưng nghĩa khác nhau. Ví dụ: tri trong tri thức: có nghĩa là biết. trí trong trí thức: có nghĩa là khả năng nhận thức, hiểu biết.
- 2. Cách phân biệt nghĩa của một số yếu tố Hán Việt dễ nhầm lẫn - Dựa vào từ có chứa yếu tố Hán Việt đồng âm để suy luận. - Dựa vào việc tra cứu từ điển.
- PHẦN II. LUYỆN TẬP I. Thực hành bài tập về điển cố, điển tích Bài tập 1. Tìm hiểu và giải thích ý nghĩa các điển cố, điển tích (in đậm) trong những trường hợp sau: A Lòng này gửi gió đông có tiện Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời (Đoàn Thị Điểm – Chinh phụ ngâm) b. “Sầu đong các lắc càng đầy Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” (Nguyễn Du – Truyện Kiều)
- c. Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách vở của thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn hủy tượng, đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn,Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ.(Nguyễn Dữ - Chuyện chức phán sự đền Tản Viên) d. “Nhớ ơn chín chữ cao sâu, Một ngày một ngả bóng dâu tà tà” (Nguyễn Du – Truyện Kiều)
- Câu thơ Ý nghĩa của điển cố, điển tích a. Lòng này gửi gió đông có tiện - Non Yên chỉ núi Yên Nhiên. Đậu Hiến đời Hậu Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Hán đuổi giặc Bắc Thiền Vu đến núi Yên Nhiên, khắc đá ghi công ở đó rồi trở về. Ở đây có nghĩa là Non Yên dù chẳng tới miền nơi chiến trận biên ải xa xôi. Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời - Điển tích này được dùng để thể hiện không gian (Đoàn Thị Điểm – Chinh phụ ngâm) xa cách giữa người chinh phu và người chinh phụ.
- b. “Sầu đong các lắc càng đầy - Ba thu: Điển cố này xuất phát từ câu Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” trong Kinh Thi: một ngày không thấy mặt nhau lâu như ba mùa thu (Nhất (Nguyễn Du – Truyện Kiều) nhật bất kiến như tam thu hề). - Điển cố này được dùng nhằm diễn tả mối tương tư của Kim Trọng với Thúy Kiều. Một ngày không gặp Thúy Kiều, Kim Trọng có cảm giác lâu như đã ba năm.
- c. Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách vở - Cố Thiệu: người thời Tam quốc, làm quan ở của thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ Dự Chương, chủ trương việc phá hủy các đền thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn hủy tượng, thờ dâm thần, trong số đó có đền Lư Sơn. Sau đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa thần Lư Sơn đến xin dựng đền lại, Cố Thiệu chỉ nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo cười mà không trả lời. Thần giận bảo: “Ba năm làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền nữa ngươi sẽ chết”. Đến kì hạn đó, Thiệu bị ốm, như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn, mọi người đều khuyên Thiệu nên dựng lại đền, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ. Thiệu nói: “Tà không thể thắng được chính”, (Nguyễn Dữ - Chuyện chức Rồi sau Thiệu chết. phán sự đền Tản Viên) - Hồn ma tướng giặc tìm đến gặp Ngô Tử Văn, đem gương Cố Thiệu đốt đền Lư Sơn sau phải chết ra để dọa chàng, bắt chàng dựng trả lại ngôi đền mà Tử Văn đã đốt.
- d. “Nhớ ơn chín chữ cao sâu, - Điển cố này cũng xuất phát từ Kinh Một ngày một ngả bóng dâu tà tà” Thi. Chín chữ nói về công lao của cha mẹ đối với con cái, đó là: sinh, cúc, (Nguyễn Du – Truyện Kiều) phủ, súc, trưởng, dục, cố, phục, phúc. - Điển cố này trong câu thơ nói đến việc Kiều nghĩ đến công ơn cha mẹ, trong khi nàng chưa có dịp báo đáp được
- Bài tập 2: Xác định điển tích, điển cố và nêu tác dụng của việc sử dụng điển tích, điển cố trong các trường hợp sau: a. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao (Đoàn Thị Điểm – Chinh phụ ngâm) b. Giường kia treo cũng hững hờ Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn (Nguyễn Khuyến - Khóc Dương Khuê)
- c. Khi về hỏi Liễu Chương Đài, Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay! (Nguyễn Du - Truyện Kiều) d. Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. (Nguyễn Du - Truyện Kiều) e. Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai (Nguyễn Du - Truyện Kiều)
- GỢI Ý a- Dặm nghìn da ngựa: sách Hậu Hán thư chép lời của Mã Viện: “Đấng nam nhi nên chết ở chiến trường, lấy da ngựa bọc thây”, ý nói nam giới phải tung hoành ngang dọc, không ngại hiểm nguy, sẵn sàng đương đầu với cả cái chết. - Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao: lấy ý từ câu thơ trong bức thư Tư Mã Thiên (sử gia nổi tiếng Trung Quốc đầu thời Hán) viết cho một người bạn: “Ai cũng có một lần chết, có cái chết nặng hơn núi Thái Sơn, có cái chết nhẹ hơn lông chim hồng”, ý nói sinh mệnh rất đáng trân quý, còn nặng hơn núi Thái Sơn, nhưng khi đã tìm được có ý nghĩa đủ để sẵn sàng dùng tính mạng đánh đổi thì cái chết ấy nhẹ hơn cả lông chim hồng. => Cả hai điển cố đều chỉ khát vọng của người chinh phu khi ra trận.
- b/ - Giường kia: Trần Phồn đời Hậu Hán dành riêng cho bạn là Tử Trĩ một cái giường khi bạn đến chơi, khi bạn về thì treo giường đó lên. - Đàn kia: Chung Tử Kì nghe đàn của Bá Nha mà hiểu được ý nghĩ của bạn. Do đó khi bạn chết, Bá Nha đã đập đàn không gảy nữa vì cho rằng không có ai hiểu được tiếng đàn của mình. => Tác giả dùng 2 điển tích này để nói lên tình bạn tri âm tri kỉ giữa tác giả và Dương Khuê, luôn đồng cảm, thấu hiểu nhau, sẻ chia với nhau mọi niềm vui, nỗi buồn. Từ đó làm diễn tả nỗi đau mất bạn từ bên ngoài kết đọng vào bên trong, sâu trong tâm khảm của nhà thơ.
- c. Liễu Chương Đài: Gợi chuyện người xưa đi làm quan ở xa, viết thư về thăm vợ có câu: “Cây liễu ở Chương Đài xưa xanh xanh, nay có còn không, hay là tay khác đã vin bẻ mất rồi”. => Kiều tưởng tượng đến cảnh Kim Trọng trở về thì nàng đã thuộc về người khác.
- d. Bể dâu : Theo sách Thần tiên truyện, thời Đông Hán, có ông Vương Phương Bình thông minh học giỏi, thi đỗ cao và được bổ làm quan đến chức Trung tán đại phu. Nhưng ông sớm từ quan để tu tiên học đạo. Khi đắc đạo, Phương Bình giáng xuống nhà Thái Kinh, cho sứ giả mời tiên nữ Ma Cô (vị thọ tiên trong thần thoại Trung Hoa) đến để hỏi về thời gian cách biệt. Ma Cô tiên nữ trả lời rằng: “Từ khi biết ông đến nay, đã thấy ba lần biển xanh biến thành ruộng dâu”. => Cuộc bể dâu mà Nguyễn Du trải qua đây không phải là ảo giác mà là sự thật rành rành trước mắt. Đó là hình ảnh của xã hội với sự thay đổi nhanh chóng không thể ngờ của nó mà Nguyễn Du đã chứng kiến. Chính vì thế, nhưng điều trông thấy đã làm cho nhà thơ đau đớn lòng. Tâm can tác giả quặn thắt, đau xót vô cùng trước những hình ảnh diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Nhà thơ chua xót và thông cảm với những kiếp người cơ cực trong xã hội bấy giờ.
- e. Nghiêng nước nghiêng thành: Điển cố, lấy từ bài ca của Lý Diên Niên (Trung Quốc): “Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc” (Ngoảnh lại một cái làm xiêu thành trì của người, ngoảnh lại cái nữa làm xiêu nước của người.). => Câu thơ mượn từ ngữ của bài thơ xưa để diễn tả vẻ đẹp của Thuý Kiều.
- Bài tập 3: Tìm trong sách, báo (hoặc trên Internet) câu chuyện Tái Ông thất mã (Tái Ông mất ngựa). Viết một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng) kể lại chuyện đó và nêu ý nghĩa của điển tích “ngựa Tái Ông”. GỢI Ý *Về hình thức: HS đảm bảo hình thức đoạn văn và dung lượng 10 – 12 dòng. *Về nội dung: Kể lại ngắn gọn câu chuyện Tái Ông thất mã (Tái Ông mất ngựa) và nêu ý nghĩa của điển tích “ngựa Tái Ông”.
- Đoạn văn tham khảo: Câu chuyện Tái Ông thất mã (Tái Ông mất ngựa) kể về một ông lão kia sinh sống gần biên ải (tức Tái Ông). Một ngày nọ, con ngựa quý của ông bỗng dưng biến mất. Những người hàng xóm đến nhà hỏi thăm, Tái Ông bình thản nói: "Mất ngựa biết đâu lại là điềm may". Quả thật, vài ngày sau, ngựa của Tái Ông quay trở về, mang theo một con ngựa hoang dã khác. Mọi người lại đến nhà Tái Ông chúc mừng, nhưng ông lại nói: "Được ngựa biết đâu lại là điềm họa". Thật không ngờ, con trai Tái Ông vốn tính hiếu động, vì ham chơi mà bỏ bê việc học hành. Khi thấy con ngựa hoang dã hung dữ, cậu bé sợ hãi và bị ngựa đá gãy chân. Mọi người lại đến nhà Tái Ông than vãn, nhưng ông vẫn bình thản nói: "Gãy chân biết đâu lại là điềm may".

